Theo
sử sách thì Mạc Đăng Dung (1483-1541)- Thái tổ nhà Mạc
(1527-1592), vốn xuất thân từ một gia đình ngư dân nghèo ở làng
Cổ Trai, huyện Nghi Dương (nay là xã Ngũ Đoan, Kiến Thụy, Hải
Phòng). Về dòng dõi huyết thống, theo Đại Việt thông sử của Lê
Quý Đôn thì Mạc Đăng Dung là hậu duệ đời thứ 7 của Trạng
nguyên Mạc Đĩnh Chi (1280-1350) ở Lũng Động, Hải Dương, đến đời
tổ phụ là Mạc Đăng Bình lại từ Thanh Hà chuyển cư xuống Cổ
Trai. Do hoàn cảnh bẩn bách, nên vừa lớn lên, Đăng Dung đã phải
dở dang nghiệp thi thư để lo kế sinh nhai bằng nghề đánh cá và
chèo đò thuê. Nhưng sức khỏe và chí lớn hơn người đã giúp ông
về sau làm nên nghiệp đế vương. Từ một chàng trai nổi tiếng
khắp vùng về môn đánh vật giật giải, ông đã thi đỗ Đệ nhất Đô
lực sĩ (Trạng nguyên võ) dưới triều vua Lê Uy Mục (1505-1509)
và được sung vào đội quân túc vệ, giữ việc cầm tán đi theo xe
vua. Ít lâu sau, Mạc Đăng Dung được đặc cách thăng bổ Đô chỉ huy
sứ Vệ Thiên Vũ là chức quan đứng đầu quân Cấm Vệ. Năm Hồng
Thuận thứ 3 (1511), ông được tấn phong tươcs Vũ Xuyên Bá và đến
năm Quang Thiệu nguyên niên (1516) triều Lê Chiêu Tông, ông được cử
làm Trấn thủ Sơn Nam và gia phong chức Phó tướng Tả đô đốc.
Niên hiệu Quang Thiệu thứ 3 (1518), Mạc Đăng Dung được thăng chức
Vũ Xuyên hầu và chuyển ra trấn thủ Hải Dương. Tiếp theo quan năm
sau (1519) do có công lớn dẹp yên bọn phản loạn Lê Do và dụ
hàng được phe đảng chống lại triều đình là bọn Nguyễn Kính,
Hoàng Duy Nhạc… lấy được Kinh đô nên Mạc Đăng Dung được thăng
thưởng tước phong Minh quận công. Và đầu năm Quang Thiệu thứ 5
(1520), theo đề nghị của Thượng thư bộ Lễ Phạm Gia Mô (1476-?)
và nhiều trọng thần khác, Lê Chiêu Tông đã ưng thuận giao chức
Tiết chế các doanh Thủy lục quân 13 đạo (tức Tổng tư lệnh quân
đội) cho Mạc Đăng Dung. Liền năm sau (1521), ông được thăng Thái
phó, tước Nhân quốc công. Sang thời vua Lê Cung Hoàng (1522-1527),
vào năm Thống Nguyên thứ 3 (1524), ông được thăng tước Bình chương
quân quốc trọng sự Thái phó Nhân quốc công. Đầu năm Thống
Nguyên thứ 6 (1527), bằng sự ân sủng đăch biệt, vua Cung Hoàng đã
thăng cho Mạc Đăng Dung tước Thái sư An Hưng Vương, gia Cửu tích-
mặc dù lúc này ông đã lui về quê Cổ Trai nhằm tránh tai tiếng
quyền hành. Vậy là từ một người lính túc vệ vác tán theo
hầu xe vua, sau hơn 20 năm tham chiến và tham chính giữa thời tao
loạn, Mạc Đăng Dung đã lên tới đỉnh điểm của danh vọng. Tuy
nhiên, bước vào giai đoạn lịch sử này, cục diện tình hình đất
nước đang lâm vào bối cảnh khủng hoảng chính trị vốn đã kéo
dài hàng chục năm lại càng bi đát hơn. Nhà Lê-do L
ê Lợi khai
sáng, qua thời thịnh trị dưới thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497)
thì tiếp đến các đời vua sau ngày một trượt dài vào con đường
suy vi không sao cưỡng nổi. Hết “Vua lợn” (Lê Uy Mục) đến “Vua
quỷ” (Lê Tương Dực) chỉ biết ăn chơi trác táng đã đấy muôn dân
bách tính vào cảnh lầm than khốn cùng thì sang thời Lê Chiêu
Tông (1516-1522) tình hình đất nước càng rối loạn hơn do sự xâu
xé quyền lực giữa các phe phái quý tộc gây nên. Lê Chiêu Tông
bị phế truất, Lê Cung Hoàng mới 15 tuổi lên thay chẳng khác gì
“sào gậy chống bè lim” lại càng không thể xoay chuyển được
tình thế. Trước bối cảnh đó, lịch sử không còn sự lựa chọn
nào khác là phó thác quyền trị vì đất nước vào tay Mạc Đăng
Dung để khởi dựng lên triều đại mới- nhà Mạc- vào đúng ngày
15 tháng 6 năm Đinh Hợi (1527) mà như Lê Quý Đôn đã viết trong
Đại Việt thông sử rằng: “Lúc này thần dân phần nhiều xu hướng
về Mạc Đăng Dung ..”
Tiếng
rằng tiếp nhận ngôi báu từ nhà Lê chuyển sang nhưng thực chất
là tiếp nhận một cơ đồ trống không và vì thế Mạc Thái tổ
Đăng Dung đã phải gây dựng lại tất cả. Nhưng nhờ biết tập hợp
xung quanh mình nhiều người tài trí, lại được đồng thuận nhân
tâm của thần dân nên chỉ vài năm sau đó, nhà Mạc dần dần từng
bước đưa đất nước vào thế ổn định vững vàng. Trên đà khởi
sắc đó, tháng 3 năm Minh Đức thứ 3 (1529), vương triều Mạc non
trẻ đã mở khoa thi Hội đầu tiên và lấy đỗ 27 tiến sĩ (kể từ
đó, đều đặn 3 năm một khoa, nhà Mạc đã tổ chức được 22 khoa
thi lấy đỗ 499 tiến sĩ và 13 Trạng nguyên-số lượng khoa thì và
số nhân tài được đào tạo này có thể so sánh tương đương với
thời Lê Thánh Tông). Cũng cuối năm đó, xét thấy công việc triều
chính đã vận hành nhịp nhàng, quy củ đúng theo sở nguyện nên
Mạc Đăng Dung quyết định truyền ngôi cho con trưởng là Mạc Đăng
Doanh rồi lui về Cổ Trai với chức trách Thái Thượng Hoàng. Ở
cương vị Thái Thượng Hoàng, suốt mười năm trời, Mạc Đăng Dung
làm cố vấn cho con điều hành công việc triều chính và đã đưa
đất nước vào thời thịnh trị với những thành tựu phát triển
rực rỡ trên nhiều lĩnh vực kinh tế, tư tưởng, văn hóa… Chính
sử thần Lê-Trịnh là Lê Quý Đôn tuy vẫn gọi Mạc Đăng Dung và
các vua Mạc kế tiếp là “nghịch thần” nhưng cũng phải thừa
nhận trong Đại Việt thông sử rằng: “Đăng Doanh thấy trong nước
còn nhiều trộm cướp, bèn ra lệnh cấm nhân dân các xứ không
được mang gươm giáo, dao nhọn và các đồ binh khí đi ngoài
đường. Từ đấy, những người đi buôn bán chỉ đi tay không, không
phải đem khí giới tự vệ, trong khoảng mấy năm, trộm cướp biệt
tăm, súc vật chăn nuôi tối đến không phải dồn vào chuồng, cứ
mỗi tháng một lần kiểm điểm thôi. Mấy năm liên tiếp được mùa,
nhân dân bốn trấn đều được yên ổn” (Sđd, NXB KHXH-Hà Nội,
1978-Tập I, trang 276). Có thể nói từ cơ đồ hoang tàn do những
“vua lợn”, “vua quỷ” để lại mà đã nhanh chóng khôi phục và lập
được nền an ninh trên toàn cõi như thế thì thử hỏi đã có
triều đại kim cổ nào làm được như nhà Mạc dưới thời cha con
Mạc Đăng Dung? Một học giả người Mỹ là John Whit More- tác giả
cuốn “The Birth of Viet Nam” (sự hình thành của Việt Nam) rất
nổi tiếng, đã nêu một luận điểm mà ngay giáo sư sử học Trần
Quốc Vượng cũng cho là thú vị rằng: Cái gì cải cách Hồ Quý Ly thất bại thì Mạc Đăng Dung và con cháu đã làm được.
Nhưng rồi phải chăng vì quá lo nghĩ đến việc nước, việc dân
mà một người có sức khỏe phi thường- từng sử dụng một thanh
long đao dài 2,5m, nặng hơn 25,5kg (hiện còn lưu giữ tại từ
đường họ Phạm gốc Mạc ở thôn Ngọc Tỉnh, Xuân Hùng, Xuân Thủy,
Nam Định) như Mạc Đăng Dung lại sớm băng hà khi chưa đầy 60 tuổi.
Ấy là ngày 22 thánh 8 năm Quảng Hòa thứ nhất đời vua Mạc
Phúc Hải (1541). Tương truyền, khi lâm bệnh, vua cháu là Phúc
Hải từ Thăng Long về thăm, biết khó qua khỏi nên Mạc Đăng Dung
đã căn dặn mọi việc và dục cháu nhanh chóng hồi kinh “để trấn
an nhân tâm và coi xã tắc là trọng”. Vốn sinh thời rất ghét
những chuyện mê tín dị đoan, nên trong di chúc ông nhắc nhở:
không làm chay đàn cúng Phật. Sau khi Mạc Đăng Dung qua đời, nhà
Mạc với 3 đời vua kế tiếp còn làm chủ đất nước được hơn nửa
thế kỷ thì mới bị thất thế vào năm 1592 và sau đó tại vùng
non nước Cao Bằng còn tồn tại kéo dài thêm 4 đời vua nữa, cho
đến năm 1677, tính ra vừa tròn 150 năm mới mất hẳn.
Nhà
Mạc mất bởi ngọn cờ “Phù Lê diệt Mạc” do Nguyễn Kim
(1467-1545) khởi dựng trên đất Lào (Sầm Châu) từ năm 1530. Sau khi
Nguyễn Kim bị một tướng nhà Mạc giết chết thì người kế thừa
là Trịnh Kiểm (?-1570) vốn là con rể của Nguyễn Kim mới tạo
được cục diện Nam-Bắc triều chống đối quyết liệt với nhà Mạc
để giành quyền bính về tay họ Trịnh. Nhưng cục diện phân tranh
này kéo dài cho đến đời con Trịnh Kiểm là Trịnh Tùng (?-
1623) thì họ Trịnh mới thắng thế. Bước ngoặt lịch sử “đoạt
bá đồ vương” này không chỉ đẩy thân tộc họ Mạc vào thảm tru di
khốc liệt kéo dài mà công tích và sự nghiệp suốt 65 năm tồn
tại của vương triều Mạc cũng bị phủ nhận sạch trơn trước
chính sách thù hận của tập đoàn Lê-Trịnh. Nhằm xóa bỏ tận
gốc mọi ảnh hưởng của nhà Mạc đối với đương thời cũng như
hậu thế, các sử gia “vua Lê-chúa Trịnh” tuân theo ý đồ của
những kẻ cầm quyền đã không ngần ngại xuyên tạc sự thật để
bôi nhọ và hạ nhục cha con Mạc Đăng Dung đến thậm tệ. Ngoài
tội “thoán nghịch”, Đại Viết Sử ký toàn thư do Phạm Công Trứ
(1600-1675) chủ biên phần kỷ nhà Lê còn gán cho cha con Mạc Đăng
Dung thêm cái tội tày đình là “dâng đất đầu hàng nhà Minh” Sự
thật thì thế nào? Do khuôn khổ bài viết không cho phép dẫn
giải cặn kẽ, nên ở đây, trong việc nhà Mạc bị coi là ngụy
triều, chỉ xin được trích dẫn ý kiến của giáo sư Trần Quốc
Vượng tại cuộc hội thảo khoa học về vương triều Mạc ngày
18/7/1994 ở Hải Phòng rằng: “Không nên chỉ nhìn nhận và đánh
giá công nghiệp nà Mạc qua những gì sử thần nhà Lê viết.
Triều đình Lê-Trịnh đối nghịch với nhà Mạc từ đầu đến cuối
thế kỷ XVI và còn tiếp tục đối nghịch với triều Mạc thu nhỏ
ở Cao Bằng ba đời nữa cho đến hết nửa đầu thế kỷ XVII; do vậy
sử thần Lê-Trịnh bôi xấu triều Mạc là chuyện tất nhiên, “yêu
nên tốt, ghét nên xấu” là chuyện thường tình. Mạc Đăng Dung lấy
ngôi nhà Lê không phải từ tay một vua Lê anh hùng như Lê Lợi,
một vua Lê có học vấn và tài năng như Lê Thánh tông, mà là
những vua lợn, vua quỷ. Sự thay thế dó là hợp lẽ Đời và
Đạo”. Còn việc “dâng đất đầu hàng nhà Minh”? Vấn đề này, sách
Đại Nam nhất thống chí của triều Nguyễn (1802-1945) và Phương
Đình dư địa chí của Nguyễn Văn Siêu (1799-1872) đều khẳng định
rằng nhà Mạc trả đất chứ không phải là dâng đất. Nhưng thế
nào gọi là trả đất? Trong bài “Mạc Đăng Dung có dâng đất cho
nhà Minh hay không?” của tác giả Huệ Thiên đăng trên Bán nguyệt
san Kiến thức ngày nay- số ra ngày 15/10/1991 đã lý giải hết
sức cụ thể về việc này vốn có căn nguyen từ thời Lý ở thế
kỷ XI. Gần đây hơn, trên tạp chí Cửa biển (Hải Phòng) số
75/2004, trong bài “Sách lược ngoại giaos của nhà Mạc” của tác
giả Ngô Đăng Lợi đã trích dẫn sách Khâm Châu chí của Trung
Quốc rằng: “Bảy động Chiêm Lăng, Thi La, Tư Lặc, Liêu Cát, Cổ
Lâm, Tư Sẫm, La Phù (tức là những xứ đất dọc biên giới Việt
–Trung mà nhà Minh đòi nhà Mạc phải trả lại-NPT) nguyên là đất
quận Thi La, Chiêm Lãng, Như Tích đời Tuyên Đức nhà Minh, bọn
Hoàng Kim Quảng, trưởng động Tư Lẫm làm phản chiếm cứ Tư Lẫm,
La Phù, Cổ Sâm, Liêu Cát, nhân đó uy hiếp cả động Tư Lặc cùng
tuần ty kênh Phật Đào gồm 9 thôn, đăng dài hơn 200 dặm phụ về
nước An Nam…”Còn như sự kiện Mạc Đăng Dung cùng vua cháu là
Phúc Hải tự trói mình và buộc dây thừng vào cổ rồi đi chân
không đến bò rạp trước Mạc Phủ quân Minh ở Nam Quan để dang
biểu đầu hàng vào tháng 11 năm Canh Tý (1540) như sử nhà lê
chép và về sau là Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim thêu
dệt thêm nhiều chi tiết thì lại càng khó tin. Một con người
dũng lược như Mạc Đăng Dung, lại có những bề tôi trung thành
nổi tiếng hiền tài như các Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm, Giáp
Hải, Ngô Miễn Thiệu… chẳng lẽ lại chịu nhục đến thế sao?
Việc này theo sách Thù vực chu tư lục của Nghiêm Tòng Giản đời
Minh mà tác giả Ngô Đăng Lợi trong bài viết đã nêu trên có dẫn
lại là: Mạc Đăng Dung cùng đoàn tùy tùng chỉ không mặc phẩm
phục, cổ buộc dây lụa tượng trưng cho sự đầu hàng, đến lạy và
cúi đầu trước long đình che lọng vàng-tượng trưng cho Hoàng đế
nhà Minh. Phải hiểu được cái thế của nhà Mạc trong bối cảnh
“thù trong giặc ngoài” o ép lúc bấy giờ mới thấy rằng “khổ
nhục kế” buộc vương triều Mạc phải chấp nhận như nêu trên là
không có sự lựa chọn nào hơn nhằm tránh cho đất nước một cuộc
chiến tranh xâm lược khi mà nhà Minh đã đưa đại quân áp sát
biên giới. Mặc dù vậy nhà Mạc vẫn không ngừng cảnh giác và
chủ động đối phó ngay từ thời kỳ đầu lập quốc. Đại Việt
thông sử của Lê Quý Đôn cũng đã viết: “Năm Giáp Ngọ niên hiệu
Nguyên Hòa thứ 2 (1534) vua Minh sai Hàm Ninh hầu Cửu Loan và Binh
bộ thượng thư Mao Bá Ôn dẫn quân đến biên giới nước ta, tuyên
bố là sang đánh họ Mạc. Đăng Doanh lo sợ, liền tu sửa trại
sách, luyện tập thủy quân; trưng cầu hết thảy các cựu thần
lão tướng để cùng bàn việc nước…” (Sđd-Tập I, trang 277). Sách
Thù vực chu tư lục của Nghiêm Tòng Giản còn cho biết rõ thêm:
Triều đình nhà Minh bàn luận khá căng thẳng về việc có nên
đánh nhà Mạc hay không. Khi bọn Mao Bá Ôn đến Nam Ninh thì hay
tin quân dân nhà Mạc đã ráo riết chuẩn bị đề kháng quyết liệt
(nguyên văn: giao nhân đại cảnh bị), lấy thuốc độc, bả đậu bỏ
vào suối nước, đào hố, cắm chông cản vó ngựa, lại phao tin sẽ
theo đường biển tấn công vào Quảng Đông…(Ngô Đăng Lợi- Bđd). Như
vậy là nhà Mạc chỉ cầu hòa với nhà Minh chứ không đầu hàng-
đúng như nhận định của giáo sư Trần Quốc Vượng là “thần phục
giả, độc lập thực”.
Thay
lời kết: Trong bài “Một chút cơ duyên với họ Mạc” (Hợp biên
thế phả họ Mạc-NXB Văn hóa dân tộc, 2001) giáo sư Trần Quốc
Vượng đã nêu một nhận xét rất đáng suy ngẫm trong việc nhìn
nhận, đánh giá nhà Mạc: “Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm(đỗ
Trạng đầu thời Mạc 1533, thời cuối Lê không chịu đi thi) cũng
như người bạn vong niên thân thiết của ông Trạng nguyên Giáp
Hải-với bài thơ “Vịnh bèo” nổi tiếng của ông đối đáp với
tướng Mao Bá Ôn nhà Minh-là hai vị Trạng nguyên sáng giá nhất
của triều Mạc và của mọi thời đại Việt Nam. Không lẽ một
ngụy triều tồi tệ lại sản sinh ra những hiền tài-nguyên khí
quốc gia? Không lẽ thời Mạc “tồi tệ” ấy lại để lại cho đến
nay những cái đình (Tây Đằng, Thụy Phiêu, Thanh Lũng, Thổ Hà,
Tường Phiêu, Đinh Là…), các chùa quán (Hội Linh, Bối Khê, Trăm
Gian…) với các điêu khắc gỗ tinh tế đầy bản sắc dân tộc-dân
gian, các tượng chân dung hiện thực vào loại đầu tiên của nền
mĩ thuật dân gian, không lẽ dưới một vương triều, đế triều “bán
đất”, “đầu hàng” mà lại phát triển công thương dường ấy?..”
Thiết
nghĩ, tên tuổi và hành trạng của Mạc Thái tổ Đăng Dung không
thể tách rời những thành tựu mà nhà Mạc đã đạt được xuyên
suốt 65 năm tồn tại trong lịch sử đất nước.
Đăng nhận xét